Theo quy hoạch đến năm 2050, cả nước sẽ hình thành 33 sân bay để kết nối các địa phương, phục vụ cho nhu cầu đi lại của người dân và vận tải hàng hoá.
Nhu cầu mở rộng mạng lưới sân bay nội địa
Tốc độ tăng trưởng của ngành hàng không gắn liền với yêu cầu mở rộng mạng lưới sân bay và đường bay để đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Thực tế, sân bay không chỉ là điểm trung chuyển quan trọng của dòng lưu thông con người và hàng hóa mà còn kết nối các hoạt động giao thương, xuất nhập khẩu, du lịch, thu hút đầu tư, phát triển kinh tế.
Tại Việt Nam, hàng không và sân bay đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế của các địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế (IATA) dự báo, tới năm 2035, hàng không Việt Nam sẽ phục vụ tới 136 triệu hành khách và đóng góp 23 tỷ USD vào GDP.
Dễ nhận thấy, những địa phương được đầu tư hạ tầng hiện đại, trong đó có việc xây mới hoặc đầu tư nâng cấp sân bay thì ngành du lịch sẽ được kích hoạt, lượng khách tăng mạnh, mang đến nguồn thu lớn cho địa phương. Trong đó tiêu biểu phải kể đến các sân bay Phú Quốc, Đà Nẵng, Nha Trang…
Theo các chuyên gia, tại những khu vực có địa hình phức tạp, cách trở về mặt địa lý như miền núi cao, hải đảo… sự hiện diện của sân bay sẽ xóa mờ khoảng cách, giúp việc đi lại dễ dàng, tiết kiệm thời gian và chi phí. Mạng lưới các sân bay nối liền sẽ tạo nên “mạch máu” cho nền kinh tế.
Hệ thống “mạch máu” này càng dày đặc thì việc di chuyển, thông thương, kinh doanh giữa các tỉnh thành, vùng miền, giữa trong nước với thế giới càng trở nên thuận lợi. Chưa kể các lợi ích xã hội như tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống, trợ giúp hoạt động cứu trợ cứu nạn khi cần thiết…
Thực tế hiện nay, mạng lưới sân bay tại Việt Nam còn mỏng. Hiện cả nước chỉ có 22 cảng hàng không đang khai thác, trong đó 20 cảng có nguồn gốc là sân bay quân sự được cải tạo, nâng cấp thành sân bay dân dụng. Chỉ có 1 cảng hàng không do tư nhân đầu tư là sân bay quốc tế Vân Đồn. Vì vậy, nhu cầu mở rộng mạng lưới sân bay nội địa để kết nối các địa phương trên cả nước được đánh giá là quan trọng.
Quy hoạch 33 sân bay đến năm 2050
Trước tình hình trên, Cục Hàng không Việt Nam đã quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo quy hoạch mới này, đến năm 2050, cả nước hình thành 33 cảng hàng không, gồm: 14 cảng hàng không quốc tế (Vân Đồn, Hải Phòng, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc).
19 cảng hàng không quốc nội (Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Cao Bằng, Nà Sản, Cát Bi, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo, Biên Hoà, Thành Sơn và Cảng hàng không thứ 2 phía Đông Nam, Nam thủ đô Hà Nội).
Trong giai đoạn 2021-2030, các cảng hàng không, sân bay được quy hoạch theo mô hình trục nan với hai đầu mối chính tại khu vực thủ đô Hà Nội và khu vực TP.HCM, hình thành 30 cảng hàng không bao gồm: 14 cảng hàng không quốc tế (Vân Đồn, Cát Bi, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc).
14 cảng hàng không quốc nội (Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau và Côn Đảo) và hai cảng hàng không quốc nội (Thành Sơn và Biên Hòa) được hình thành từ việc chuyển đổi các sân bay quân sự Thành Sơn và Biên Hòa sang khai thác lưỡng dụng theo mô hình cảng hàng không.